AQUAMARINE
Ngọc Xanh Biển hay Ngọc Berin là một loại đá quý màu xanh berin. Ngọc berin còn có tên là Aquamarine . Công thức hóa học của Ngọc Berin là Be3Al2(SiO3)6, rất gần với Emerald. Các loại berin có thể tìm thấy trên đất Mỹ ở gần trung tâm Colorado tại khu vực gần đỉnh núi Antero trong dãy núi Collegiate.
Ngọc Xanh Biển (hay Ngọc Berin) là một loại đá quý màu xanh của nhóm Berin, Ngọc Berin còn có tên là Aquamarine (từ tiếng Latinh: aqua marina nghĩa là “Nước Biển”). Công thức hóa học của Ngọc Berin là Be3Al2(SiO3)6, rất gần với Ngọc Lục Bảo (Emerald). Các loại berin có thể tìm thấy trên đất Mỹ ở gần trung tâm Colorado tại khu vực gần đỉnh núi Antero trong dãy núi Collegiate. Tại Brasil có các mỏ khai thác ở các bang Minas Gerais, Espírito Santo và Bahia. Aquamarine và Ngọc Lục Bảo thuộc cùng một gia đình nhưng chúng có sự khác biệt đáng ngạc nhiên, Cả Aquamarine và Ngọc Lục Bảo đề là Silicat – Nhôm – Berili nhưng màu Ngọc Lục Bảo được tô bởi lượng Crom ( đôi khi là Vanadium): trong khi đó Aquamarine có màu sắc từ các tạp chất sắt trong chất Beryl không màu (Goshenite). Hai loại đá này có cùng trọng lượng và chiết suất tương tự nhưng Ngọc Lục Bảo có khuynh hướng mờ còn Aquamarine được biết đến với độ trong suốt và rõ nét.
Aquamarine có độ bền và độ cứng cao từ 7.5 – 8 trên thang Mohs, chúng có sự lấp lánh giống như thủy tinh, có độ rõ nét tuyệt vời và màu sắc bắt mắt so với nhiều đá quý khác tương tự. Cường độ màu sắc và sự rõ nét của đá là tiêu chí quan trọng nhất khi đánh giá Aquamarine. Bằng cách kiểm định lượng sắt và thành phần các nguyên tố vi lượng, cấu trúc tinh thể sáu mặt của Aquamarine để có thể dễ dàng phân biệt nó với các loại đá cùng màu xanh biển khác như Larimar, Amazonite, Saphire và Spinel.
Sự Tích Về Đá Aquamarine
Aquamarine được biết đến từ khoảng năm 300 trước CN, khi các loại bùa làm bằng đá aquamarine được khảm trên chiếc xe ngựa của thần Poseidon. Nó cũng được tìm thấy trong lăng mộ của người Ai Cập cổ, một loại đá khác để người chết có thể an toàn đi qua thế giới khác. Khiên ngực của vua Solomon cũng được cho rằng có khảm đá Aquamarine. Hai ngàn năm trước, tương truyền vua Nero đã dùng đá aquamarine làm kính mắt và người ta tin rằng đá aquamarine có thể chữa lành bệnh. Thời trung cổ, đá aquamarine được xem như là thuốc giải độc, nó cũng được dùng để tiên đoán tương lai.
Phân Bố
Hiện nay, nơi xuất hiện nhiều Aquamarine là Brazin, Zambia, Mozambic, Angola, Nigeria, Madagasca. Tại một vài quốc gia như Mexico, Mỹ cũng xuất hiện các mỏ Aquamarine với trữ lượng không lớn lắm. Việc tìm kiếm số lượng Aquamarine lớn nhất bắt đầu từ năm 1910 khi mỏ ” Minas Gerais ” ở Marambaya ( Brazil) phát hiện một hòn đá nặng 243lb ( khoảng 110.5kg), dài 18 inch (khoảng 48.5 cm) và đường kính 15.5 inch, Sau đó nó được cắt thành nhiều viên đá quý với tổng trọng lượng hơn 100.000 carats. Ở Việt Nam, đá Aquamarine cũng được tìm thấy ở vùng núi Yên Bái, Tây Nghệ An và một số nơi khác.
Màu Sắc
Aquamarine thường có màu xanh nhạt, nhưng nếu xanh càng đậm thì càng có giá trị. Đá kích thước nhỏ ít khi có màu đậm, nghĩa là đá càng lớn thì màu càng đậm. Các sắc độ của Aquamarine rất rộng, có thể có màu trắng xanh nhạt, xanh nhạt pha chút sắc vàng , xanh lục nhẹ. Tuy nhiên hiếm và đắt hơn cả là màu xanh dương đậm. Aquamarine là một loại đá cứng và bền, tuy nhiên chúng vẫn có thể bị nứt ở bên trong nếu bị va đập mạnh. Và cũng không may là loại đá này có thể bị mất màu nếu như tiếp xúc lâu ngày với ánh sáng mạnh. Rất nhiều người nhầm tưởng đá Topaz xanh và ngọc bích là Aquamarine, tuy nhiên Aquamarine có giá cao hơn nhiều so với 2 loại đá trên.
Cách Xử Lý Tăng Vẻ Đẹp Thường Gặp
Aquamarine thường ít được xử lý bời màu sắc và độ trong của viên đá tự nhiên khá tuyệt vời tuy nhiên một số viên chưa được hoàn hảo có thể được nung nóng để cải thiện màu sắc. Aquamarine thường sưởi ấm ở nhiệt độ thấp để khử các màu xanh lá cây và màu vàng phớt không mong muốn, các màu tối của đá Aquamarine thì thường được sử lý ở 725- 850F hoặc 400-450 C để có màu xanh sáng hơn.