PREHNITE

Prehnite là một khoáng vật silicate của canxi và nhôm với công thức: Ca2 Al(AlSi3O10)(OH)2, Fe 3+ thay thế cho nhôm trong cấu trúc. Prehnite kết tinh trong hệ tinh thể trực giao, và thường hình thành dưới dạng tập hợp thạch nhũ. Prehnite giòn với một vết nứt không đồng đều và ánh thủy tinh đến ngọc trai. Độ cứng của nó là 6-6,5, trọng lượng riêng của nó là 2,80-2,90 và màu sắc của nó thay đổi từ xanh nhạt sang vàng, không màu, xanh, hồng hoặc trắng. Vào tháng 4 năm 2000, prehnite màu cam hiếm được phát hiện tại Cánh đồng Mangan Kalahari, Nam Phi .

Prehnite là một khoáng vật silicate của canxi và nhôm với công thức: Ca2 Al(AlSi3O10)(OH)2, Fe 3+ thay thế cho nhôm trong cấu trúc. Prehnite kết tinh trong hệ tinh thể trực giao, và thường hình thành dưới dạng tập hợp thạch nhũ. Prehnite giòn với một vết nứt không đồng đều và ánh thủy tinh đến ngọc trai. Độ cứng của nó là 6-6,5, trọng lượng riêng của nó là 2,80-2,90 và màu sắc của nó thay đổi từ xanh nhạt sang vàng, không màu, xanh, hồng hoặc trắng. Vào tháng 4 năm 2000, prehnite màu cam hiếm được phát hiện tại Cánh đồng Mangan Kalahari, Nam Phi . Mặc dù không phải là zeolite , prehnite được tìm thấy liên quan đến các khoáng chất như datolite , calcite , apophyllite , stilbite , laumontite , và heulandite trong các tĩnh mạch và hốc của đá bazan , đôi khi trong granit , syenit hoặc gneisses .

Nó được mô tả lần đầu tiên vào năm 1788 cho một sự xuất hiện ở cá heo Karoo ở Cradock , tỉnh Đông Cape , Nam Phi . [3] Nó được đặt theo tên của Đại tá Hendrik Von Prehn (1733 Hóa1785), chỉ huy lực lượng quân sự của thuộc địa Hà Lan tại Mũi Hảo Vọng từ 1768 đến 1780.

Khai thác:
– Đầu năm 2005, công ty của ông Sielecki đã bắt đầu khai thác prehnite tại một khu vực thuộc Wave Hill sau khi đã thăm dò đến 30 năm. Mỏ nằm ở gần một thị trấn nhỏ Kalkarindji bên rìa sa mạc Tanami, cách thành phố Darwin 885 km về phía nam. Ông Sielecki cho rằng vùng này chịu những đợt phun trào bazan cổ thời đầu kỷ Cambri, tạo điều kiện sinh thành một số khoáng vật prehnite, scolecite, canxit, agate, thạch anh tím và thạch anh khói.
– Theo dự tính ban đầu, khoảng 3% prehnite khai thác đạt chất lượng quý, có thể mài cabochon hay mài giác, 95% trong số đó có màu lục phớt vàng và phần còn lại là vàng. Còn hiện nay, nhiều viên đá nhỏ mài giác đã được cắt mài từ các viên đá có bề mặt bị phong hóa, nghĩa là tỷ lệ đá chất lượng quý tăng lên nhiều hơn. Những viên chất lượng thấp hơn sẽ được mài hạt, hàng chạm và mỹ nghệ.
– Ông Sielecki đã tiếp thị đá prehnite màu lục phớt vàng với tên là “SunJade–Cẩm thạch mặt trời” và loại màu vàng là “Golden SunJade–Cẩm thạch mặt trời vàng kim”, còn những viên nào có cấu trúc tỏa tia như bông hoa nở thì có tên là “Flower SunJade–Cẩm thạch hoa mặt trời”. Ông cho biết, bản chất dạng sợi của prehnite có thể làm cho các đá cabochon có hiệu ứng mắt mèo hay hiệu ứng ánh trăng. Viên cabochon prehnite có hiệu ứng ánh trăng lớn nhất hiện nay nặng 61 ct.
Tác dụng:
– Prehnite là đá của tình yêu vô điều kiện. Nó được nói để nối tới thiên sứ Raphael. Prehnite tăng cường kiến thức bên trong. Prehnite nối lý trí và tình cảm, nên trong hành động sẽ đó đạt tới lợi ích cao nhất.
– Prehnite được hình thành trong các khe nứt vách đá của núi lửa. Đá trong mờ và có màu xanh lá non, độ cứng chỉ thua thạch anh một chút.
– Prehnite giúp kích thích hoạt động của hệ thống miễn dịch từ đó hoạt hóa sinh lực của cơ thể. Người ta nói rằng, nó giúp điều trị bệnh gut. Các nhà trị liệu thạch học khuyên dùng Prehnite trong điều trị bệnh thiếu máu. Khoáng vật này còn có tác dụng tốt trong điều trị bệnh ở thận.
– Prehnite là biểu tượng của chòm sao Thiên Bình trong cung hoàng đạo, năng lượng cảm thụ của âm, có tác dụng đối với luân xa vùng họng. Kiểm soát cơ quan hô hấp, bộ máy thính giác và da.
– Prehinite màu xanh lá phù hợp với những người mạng Mộc và mạng Hỏa.
– Mang prehnite để làm mạnh thêm trực giác của các bạn và đoán nhận những sự thật. Prehnite có thể tham dự trong việc tìm thấy nguyên nhân gốc một bệnh. Những thầy thuốc sử dụng nó để điều trị về thận, bàng quang, vai, ngực và phổi.